Trong thư ông Dũng có nêu: Các điều khoản quy định trong mục 4 “Trình tự, thủ tục thu hồi đất, giao đất cho thuê đất” của Nghị định 69/2009/NĐ-CP không quy định trách nhiệm của cơ quan nhà nước là phải trao quyết định thu hồi đất của UBND (có thể là tỉnh, huyện) cho người bị thu hồi đất.
Trong khi đó, nội dung này đã được quy định trong khoản 3 Điều 53 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP, nhưng đã bị bãi bỏ bởi điểm đ khoản 2 Điều 41 Nghị định 69/2009/NĐ-CP.
Theo ông Dũng, quyết định thu hồi đất là một quyết định hành chính, một trong những người phải thi hành là người bị thu hồi đất, do vậy rất khó triển khai nếu người bị thu hồi đất không nhận được quyết định.
Ông Dũng đưa ra giả thiết nếu cơ quan nào đó cố tình không trao quyết định cho người bị thu hồi đất, khi đó người bị thu hồi đất sẽ không có cơ sở để kiểm tra, giám sát khi cần thiết.
Về thẩm quyền thu hồi đất, ông Dũng cho biết, theo Điều 44 Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản pháp luật có quy định thẩm quyền thu hồi đất là UBND (tỉnh/huyện, tuỳ từng trường hợp) và không được uỷ quyền. Mẫu quyết định thu hồi đất (Mẫu số 13a/ĐĐ) ban hành theo Thông tư số 09/2007/TT-BTNMT ngày 2/8/2007 của Bộ Tài nguyên và Môi trường có ghi phần thẩm quyền là “Quyết định của UBND...” vì vậy thẩm quyền thu hồi đất là UBND (tỉnh/huyện).
Nhưng thực tế, theo phản ánh của ông Dũng, qua tham khảo Website của một số địa phương thì có những quyết định thu hồi đất trong đó phần thẩm quyền lại ghi “Chủ tịch UBND…quyết định..” hoặc “Quyết định...Chủ tịch UBND…” như vậy thẩm quyền là Chủ tịch UBND.
Theo Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì thẩm quyền và cơ chế quyết định của UBND và Chủ tịch UBND là khác nhau, quyết định của UBND do đa số thành viên UBND thông qua, còn quyết định của Chủ tịch UBND là do Chủ tịch quyết định.
Ghi nhận những phản ánh của ông Nguyễn Đức Dũng do Cổng TTĐT Chính phủ chuyển đến, Tổng cục Quản lý Đất đai (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho biết sẽ tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật trong thời gian tới.
Ban Bạn đọc