Cập nhật lúc : Thứ Năm, 24/05/2007 - 4:08 PM

Ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em trả lời về trường hợp không bị coi là sinh con thứ ba

(Website Chính phủ) - Qua Website Chính phủ, bà Trần Thị Lịch (khu phố 2B, phường 1, thị xã Quảng Trị) hỏi: Trước khi kết hôn với bà, chồng bà và người vợ cũ đã có một đứa con chung, cháu đang sống với mẹ. Hiện nay, hai vợ chồng bà Lịch đã có một con và muốn sinh thêm một cháu nữa. Như vậy có bị coi là sinh con thứ ba không? Văn bản pháp luật nào quy định về việc đó? Về vấn đề này, Ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em có ý kiến trả lời như sau:

Khi Quyết định số 162/HĐBT ngày 18 tháng 10 năm 1988 của Hội đồng Bộ trưởng về một số chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình còn hiệu lực, trong đó tại điểm c, d, e Điều 2 của Quyết định có quy định cụ thể những trường hợp không bị coi là sinh con thứ 3, như sau:

c. Những cặp vợ chồng tái hôn, nếu cả vợ chồng đã có con riêng hay một người đã có con riêng nay muốn có con chung thì chỉ được sinh một con.

d. Các trường hợp sinh lần thứ nhất mà sinh đôi, sinh ba thì không được sinh nữa; các trường hợp đã có một con, sinh lần thứ hai sinh đôi, sinh ba đều không bị coi là quá quy định.

e. Người đã có hai con nhưng hai con đều bị dị tật thì được đẻ con thứ ba.

Ngày 9/1/2003 Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Dân số, số 06/2003/PL-UBTVQH11.

Ngày 16/9/2003 Chính phủ ban hành Nghị định số 104/2003/NĐ-CP, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Dân số. Trong đó tại điểm a, khoản 3 Điều 17 của Nghị định quy định “Mỗi cặp vợ chồng và cá nhân có nghĩa vụ thực hiện quy mô gia đình ít con, có một hoặc hai con, no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững”.

Đối với những trường hợp không bị coi là sinh con thứ ba, hiện nay các cơ quan chức năng đang xây dựng các hướng để trình Chính phủ ban hành trong thời gian tới, cụ thể:

- Cặp vợ chồng có con thứ ba, nếu một trong hai người là người dân tộc thiểu số, dân tộc đó có dân số dưới 10.000 người.

- Cặp vợ chồng có con thứ ba, nếu cả hai người đều bị dị tật do tai nạn, không có khả năng lao động và phát triển bình thường, có xác nhận của bệnh viện cấp huyện trở lên; trường hợp cả hai con đều bị dị tật không do tai nạn, có xác nhận của bệnh viện cấp tỉnh trở lên về việc sinh con không bị bệnh di truyền.

- Cặp vợ chồng sinh con lần thứ nhất mà sinh ba trở lên.

- Cặp vợ chồng có một con, lần thứ hai sinh đôi trở lên.

- Cặp vợ chồng tái hôn sinh thêm một con chung nếu cả hai hoặc một trong hai người đã có con riêng. Không áp dụng cho trường hợp tái hôn với chính người mà mình đã ly hôn.

- Cán bộ, công chức, viên chức nữ không kết hôn có một hoặc có nhiều con do sinh đôi trở lên.

 Ban Bạn đọc-Đối ngoại