Cập nhật lúc : Chủ Nhật, 10/05/2020 - 4:00 PM

Đồng chí Nguyễn Tấn Dũng trả lời phỏng vấn của Báo Nhân dân

(Chinhphu.vn) - Ngày 10 tháng 5 năm 2020, nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã trả lời phỏng vấn Báo Nhân dân cho bộ phim "Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh - Biên niên sử truyền hình".

Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2020

 Câu 1. Thưa đồng chí, trên cương vị là Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ giai đoạn 2006 - 2016; xin đồng chí cho biết những chủ trương, giải pháp chủ yếu để ứng phó và vượt qua khó khăn, thách thức nặng nề, phức tạp, khi cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu xảy ra từ năm 2008, đưa nền kinh tế nước ta tiếp tục phát triển?

Đồng chí Nguyễn Tấn Dũng:

Trong 10 năm 2006 - 2015, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội mà Đại hội XI và Đại hội XII của Đảng đã đề ra, bên cạnh những thuận lợi và thành tựu to lớn do tiến trình 20 năm đổi mới và hội nhập quốc tế mang lại, đất nước ta vẫn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức và hạn chế, yếu kém.

Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu xảy ra từ năm 2008 rất bất ngờ và diễn biến phức tạp, kéo dài nhiều năm, ngoài dự báo. Đây là cuộc khủng hoảng trầm trọng nhất kể từ Đại suy thoái kinh tế thế giới 1929-1933, đã tác động tiêu cực, nặng nề đối với nền kinh tế nước ta.

Trong khi đó, kinh tế nước ta vẫn đang ở trình độ phát triển thấp, quy mô nhỏ, tiềm lực hạn hẹp, sức cạnh tranh còn yếu, tụt hậu so với nhiều nước trong khu vực, chưa ra khỏi nhóm nước đang phát triển có thu nhập thấp[1]. Tình hình phức tạp, căng thẳng ở biển Đông đe dọa nghiêm trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước và hòa bình, ổn định ở khu vực. Nhu cầu an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh đặt ra là rất cấp bách.

Trước bối cảnh tình hình mới, ngay sau Đại hội XI, Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời quyết định điều chỉnh mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm, trong đó chuyển từ phát triển nhanh, với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 7-7,5%/năm sang tập trung ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng hợp lý, bảo đảm an sinh xã hội; đồng thời bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm này, chúng ta đã đề ra và quyết liệt triển khai thực hiện đồng bộ nhiều chủ trương, giải pháp chủ yếu như sau:

1. Tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, kiểm soát tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán phù hợp, ưu tiên vốn tín dụng cho sản xuất, kinh doanh; chủ động điều hành linh hoạt tỷ giá và thị trường ngoại hối, đáp ứng yêu cầu phát triển và tăng dự trữ ngoại hối. Quản lý chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng, khắc phục tình trạng vàng hóa, đô-la hóa trong nền kinh tế. Kiên quyết thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm và nâng cao hiệu quả đầu tư công, tập trung vốn cho việc hoàn thành và đưa vào sử dụng các công trình, dự án quan trọng, cấp bách; phấn đấu tăng thu và chống thất thu thuế; kiểm soát chặt chẽ và tiết kiệm chi tiêu, giảm bội chi ngân sách nhà nước. Giám sát chặt chẽ việc vay và trả nợ, bảo đảm dư nợ Chính phủ, dư nợ công, dư nợ nước ngoài trong giới hạn an toàn theo quy định.

2. Ngay khi lạm phát được kiểm soát và bắt đầu giảm, chúng ta triển khai các giải pháp thích hợp kích cầu đầu tư và tiêu dùng để vừa kiểm soát được lạm phát theo mục tiêu vừa duy trì và thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh; tăng cường cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư; thực hiện miễn giảm thuế, phí; áp dụng lãi suất tín dụng phù hợp; khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu; bảo đảm cân đối cung cầu các hàng hóa thiết yếu, đặc biệt chú trọng bảo đảm an ninh lương thực và an ninh năng lượng.

3. Thực hiện các biện pháp bảo đảm ổn định đời sống nhân dân và an sinh xã hội. Trước hết là thực hiện tốt chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là đối với vùng khó khăn và đồng bào dân tộc thiểu số; chính sách đối với người có công và bảo trợ xã hội; chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp; các chính sách về phát triển giáo dục và chăm sóc sức khỏe nhân dân.

4. Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh đối với các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Tập trung vào tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công, đổi mới căn bản cơ chế phân bổ và quản lý sử dụng vốn, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, lãng phí và nâng cao hiệu quả đầu tư nhà nước. Tái cơ cấu hệ thống tài chính - ngân hàng, trọng tâm là các tổ chức tín dụng; tập trung xử lý nợ xấu, lành mạnh hóa tài chính; đổi mới quản trị theo chuẩn mực quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh. Tái cơ cấu doanh nghiệp, trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; đẩy mạnh cổ phần hoá, thoái vốn đầu tư ngoài ngành kinh doanh chính và vốn tại các doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ để tập trung vào các lĩnh vực then chốt, quốc phòng an ninh, cung ứng hàng hóa và dịch vụ công thiết yếu; đổi mới quản trị doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh.

5. Quyết liệt triển khai thực hiện 3 đột phá chiến lược. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính. Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ. Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn.

Thực hiện khâu đột phá về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, chúng ta đã quyết liệt tháo gỡ khó khăn vướng mắc, tập trung hoàn thiện cơ chế chính sách, cải cách thủ tục hành chính, phân cấp mạnh cho Bộ ngành, chính quyền địa phương và các tập đoàn, các tổng công ty nhà nước, gắn liền với giám sát kiểm tra; đa dạng hóa phương thức đầu tư, huy động mọi nguồn lực, trước hết là sử dụng tập trung và hiệu quả vốn đầu tư công để phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Nhiều công trình quan trọng, thiết yếu được khẩn trương đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng, tạo diện mạo mới cho đất nước, góp phần tích cực phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, bảo đảm quốc phòng an ninh[2].

6. Bảo đảm ổn định chính trị - xã hội; tăng cường quốc phòng, an ninh và quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế để tạo sức mạnh tổng hợp trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và giữ vững môi trường hoà bình, ổn định cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

7. Trong bối cảnh tình hình mới, chúng ta đã chú trọng làm tốt công tác thông tin, truyền thông tạo sự đồng thuận cao trong tất cả các cấp, các ngành, các địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và trong các tầng lớp nhân dân để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đề ra, đưa nền kinh tế vượt qua khó khăn thách thức, tiếp tục ổn định, phát triển.

Nhìn tổng quát, Mười năm 2006-2015, trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có rất nhiều khó khăn, thách thức, nhất là ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu; tuy còn không ít hạn chế, yếu kém, khuyết điểm mà Đại hội XII của Đảng đã nêu; nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị và toàn dân, toàn quân, kinh tế - xã hội nước ta đã đạt được những thành quả quan trọng.

Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, quy mô và tiềm lực được nâng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý. Giai đoạn 2006-2010 tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 7%/năm, nhưng do tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu nên giai đoạn 2011-2015 chỉ đạt trên 5,9% - trong đó, từ năm 2013 tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước, đến năm 2015 đạt 6,68%. Nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm các nước đang phát triển có thu nhập trung bình và hoàn thành sớm nhiều mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. GDP bình quân đầu người tăng hơn 3 lần, từ 640 USD năm 2005 lên 2.109 USD năm 2015.

Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và thực hiện ba đột phá chiến lược được tập trung thực hiện, bước đầu đạt kết quả tích cực; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nông thôn mới được đẩy mạnh. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, xã hội, y tế có bước phát triển. An sinh xã hội được quan tâm nhiều hơn và cơ bản được bảo đảm, đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện.

Bảo vệ tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu có những chuyển biến tích cực. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hiệu quả. Vị thế, uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được phát huy. Quan điểm và thể chế về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện, hiệu lực và hiệu quả được nâng lên. Những thành quả nêu trên tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục phát triển nhanh, bền vững hơn trong giai đoạn mới.

Câu 2. Thưa Đồng chí, trên cương vị các vị trí lãnh đạo đã kinh qua, xin Đồng chí cho biết thêm về những nội dung, vấn đề mà Đồng chí quan tâm, tâm đắc nhất?

Đồng chí Nguyễn Tấn Dũng:

Về những nội dung quan tâm, tâm đắc nhất. Đối với tôi, có thể nói là khá nhiều và hầu như đã được đề cập trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta. Vấn đề đặt ra là phải kiên định, nhất quán và quyết liệt hành động để biến các chủ trương, quan điểm đúng đắn của Đảng và Nhà nước sớm trở thành hiện thực trong cuộc sống. Với tinh thần đó Tôi xin nhấn mạnh một số nội dung sau:

1. Đảng ta - Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, là Đảng cầm quyền. Đường lối, chủ trương của Đảng có vai trò quyết định đối với sự nghiệp xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, đường lối, chủ trương của Đảng phải đúng đắn, sáng tạo - phù hợp với thực tiễn cả trong nước và quốc tế, phù hợp với quy luật khách quan và xu thế tất yếu của thời đại, phù hợp với nguyện vọng chính đáng của nhân dân và tất cả vì lợi ích của Tổ quốc, của quốc gia, dân tộc. Có được điều này, Đảng sẽ luôn giữ vững vai trò lãnh đạo của mình và chính từ đây, sẽ huy động được tài năng, trí tuệ của cả dân tộc, làm nên sức mạnh tổng hợp vĩ đại, vượt qua mọi khó khăn, thách thức đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững, hội nhập, tiến cùng thời đại, sánh vai với bạn bè trong khu vực và trên thế giới.

2. Từ thực tiễn của lịch sử nước ta, phải quán triệt sâu sắc và thường xuyên thực hiện thật tốt 2 nhiệm vụ chiến lược - Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phải gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng và an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên; đồng thời phải tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế. Các nhiệm vụ này phải gắn bó biện chứng với nhau, không được xem nhẹ nhiệm vụ nào trong tiến trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

3. Phải phát triển đất nước bền vững. Tăng trưởng kinh tế phải đồng thời với ổn định kinh tế vĩ mô, gắn liền với tiến bộ công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, tăng cường phúc lợi xã hội và bảo vệ môi trường sống; không ngừng nâng cao đời sống mọi mặt của người dân. Tiếp tục cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh; đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược, đặc biệt là tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ, hiện đại, tuân thủ đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng.

4. Xây dựng Đảng, Nhà nước - hệ thống chính trị của nước ta trong sạch vững mạnh, thượng tôn pháp luật, hiệu lực hiệu quả, gắn bó mật thiết với nhân dân; phải thực sự dân chủ cả trong Đảng và ngoài xã hội để lựa chọn cho được đội ngũ cán bộ chủ chốt đứng đầu các cấp, các ngành tiêu biểu cả về phẩm chất và năng lực - đây là khâu then chốt, quyết định. Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền thật sự là của dân, do dân, vì dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân; bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân và dân chủ phải thực sự vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển; bảo đảm quyền con người, quyền công dân; kiên trì quyết liệt cùng nhau chung sức đồng lòng thực hiện mục tiêu chung cao nhất là xây dựng một nước Việt Nam - dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.Tôi tin tưởng chắc chắn rằng, với sự chung sức chung lòng của toàn Đảng toàn quân toàn dân, sự nghiệp cách mạng của chúng ta nhất định thành công./.

 

Phụ lục:

[1]. GDP của Việt Nam năm 2005 là 53 tỷ USD và GDP bình quân đầu người là 640 USD/người (theo giá hiện hành). Trong khi đó, theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, quy mô GDP và GDP bình quân đầu người năm 2004 của Singapore là 107 tỷ USD và 24.841 USD/người, Hàn Quốc là 673 tỷ USD và 14.110 USD/người, Malaysia là 117 tỷ USD và 4.674 USD/người, Thái Lan là 159 tỷ USD và 2.620 USD/người, Trung Quốc là 1677 tỷ USD và 1272 USD/người, Indonesia là 258 tỷ USD và 1.184 USD/người, Philippines là 97 tỷ USD và 1.041 USD/người.

GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2003 tính theo sức mua tương đương (PPP) là 2.490 USD, xếp thứ 124/177 nước; chỉ số phát triển con người HDI là 0,704 xếp thứ 108/177 nước.

Theo Báo cáo của Ngân hàng Thế giới năm 2006, ngưỡng nước đang phát triển có thu nhập thấp có GDP bình quân đầu người năm 2004 là 825 USD; dự báo đến năm 2010, mức này có thể nâng lên 950 USD.

Năm 2004, về sức cạnh tranh, doanh nghiệp Việt Nam được xếp thứ 62/75 nước, nền kinh tế được xếp thứ 60/75 nước. Theo xếp hạng về hoạt động và chiến lược kinh doanh cũng như xếp hạng về môi trường kinh doanh quốc gia, Việt Nam đều đứng sau các nước trong khu vực như: Trung Quốc, Philippines, Indonesia, Malaysia,Thái Lan, Hàn Quốc, Singapore.  

Tỷ lệ sử dụng công nghệ cao trong công nghiệp ở Việt Nam là 20%, ở Philippines là 29%, Thái Lan 30,8%, Malaysia 51,1%, Singapore 73%.

[2]. Hạ tầng giao thông: Bước đầu thiết lập mạng đường bộ cao tốc với các tuyến Hà Nội - Lào Cai; Thành phố Hồ Chí Minh - Trung Lương; Thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây; Bến Lức - Long Thành; Đà Nẵng - Quảng Ngãi; Hà Nội - Thái Nguyên; Hà Nội - Hải Phòng; Cầu Giẽ - Ninh Bình. Hoàn thành các công trình giao thông quan trọng: Nhà ga T2 Cảng hàng không quốc tế Nội Bài, cầu Nhật Tân, đường cao tốc Nhật Tân - Nội Bài, cảng Cái Mép - Thị Vải, cảng hàng không quốc tế Phú Quốc, cảng hàng không quốc tế Cần Thơ, sân bay Thọ Xuân, cải tạo Cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng, Cảng hàng không Vinh, cầu Cần Thơ... Hoàn thành các dự án cải tạo mở rộng Quốc lộ 1, đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên. Đang xây dựng các tuyến tàu điện ngầm, đường sắt trên cao tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, cảng cửa ngõ quốc tế Lạch Huyện, cầu Cao Lãnh, cầu Vàm Cống, đường bộ cao tốc Hà Nội - Lạng Sơn, Trung Lương - Mỹ Thuận, Mỹ Thuận - Cần Thơ, Cao Lãnh - Vàm Cống...

Hạ tầng năng lượng: Riêng trong 5 năm 2011 - 2015, đã tăng thêm 18,1 nghìn MW công suất nguồn; khoảng 7,6 nghìn km truyền tải 500 kV, 220 kV và 37,4 nghìn MVA công suất các trạm biến áp. Nhiều công trình lớn đã hoàn thành và đang được xây dựng như: Thủy điện Sơn La, Lai Châu; Nhiệt điện Duyên Hải, Vĩnh Tân; đưa điện lưới ra các đảo Phú Quốc, Lý Sơn, Cô Tô, Vân Đồn...

Hạ tầng thủy lợi: Đến năm 2015 bảo đảm tưới trực tiếp cho 3,5 triệu ha đất canh tác, tạo nguồn tưới cho hơn 1 triệu ha, tiêu cho 1,7 triệu ha; tỉ lệ đô thị hóa dự báo đạt khoảng 35%.

Hạ tầng nông thôn được quan tâm đầu tư đã làm thay đổi diện mạo và thúc đẩy nhanh tiến trình xây dựng nông thôn mới. Hạ tầng thương mại với hệ thống siêu thị, chợ phát triển khá nhanh. Hạ tầng thông tin truyền thông phát triển mạnh, đã phóng thành công và đưa vào sử dụng Vệ tinh Vinasat-2. Hạ tầng giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, y tế, văn hóa, thể thao, du lịch... được quan tâm đầu tư, rất nhiều công trình được đưa vào sử dụng.